Chè vằng: “vàng xanh” từ vùng gò đồi Quảng Trị

Chè vằng (tên khoa học Jasminum subtriplinerve Blume), còn được người dân gọi là cẩm văn, mỏ sẻ, râm ri… là loài cây bụi nhỏ, thường mọc hoang ở vùng gò đồi miền Trung. Ở Việt Nam, cây phân bố tại nhiều tỉnh như Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Bình cũ, nhưng nổi tiếng và cho chất lượng tốt nhất là ở tỉnh Quảng Trị- nơi khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, giúp chè vằng tích tụ nhiều dược chất quý.

Cây chè vằng trong thiên nhiên.
Cây chè vằng trong thiên nhiên.

Theo Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam), trong lá và thân cây chè vằng chứa Alcaloid, flavonoid, polyphenol và nhựa tự nhiên, có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, chống oxy hóa, làm lành vết thương và không độc tính. Từ lâu, chè vằng đã được người dân sử dụng làm nước uống hằng ngày, đặc biệt hữu ích cho phụ nữ sau sinh nhờ công dụng thanh nhiệt, lợi sữa, giảm viêm, hỗ trợ tiêu hóa và điều hòa nội tiết tố.

Từ bài thuốc dân gian đến sản phẩm dược liệu hiện đại

Trước đây, người dân Quảng Trị thường nấu cao lá vằng hoặc phơi khô để dùng dần. Tuy nhiên, những phương pháp truyền thống này khiến hoạt chất dễ bị mất, sản phẩm khó bảo quản lâu dài. Để khắc phục, từ năm 2016, Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Trị đã phối hợp với Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên triển khai đề tài nghiên cứu chiết xuất chè vằng bằng công nghệ ethanol 80% ở điều kiện áp suất và nhiệt độ thấp.

Kết quả cho thấy hiệu suất chiết đạt 30,25%, tổng lượng polyphenol 19,2%, có hoạt tính chống oxy hóa mạnh, đồng thời kháng được nhiều vi sinh vật kiểm định. Đặc biệt, trong hạt chè vằng còn phát hiện axit béo không no nhóm omega-6 và omega-9, mở ra hướng nghiên cứu ứng dụng trong dược phẩm và thực phẩm chức năng.

Từ kết quả nghiên cứu đó, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Quảng Trị đã phát triển sản phẩm chè vằng hòa tan Tralavang, được sản xuất theo quy trình khép kín, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giữ nguyên dược tính tự nhiên và hương vị đặc trưng. Hiện sản phẩm đạt sản lượng hơn 100 tấn/năm, được tiêu thụ rộng rãi tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước, trở thành sản phẩm OCOP tiêu biểu của tỉnh Quảng Trị.

Dân gian lấy thân lá cây chè vằng phơi hoặc sấy khô, nấu nước uống.
Dân gian lấy thân lá cây chè vằng phơi hoặc sấy khô, nấu nước uống.

Hướng tới phát triển vùng dược liệu bền vững

Sự phát triển mạnh mẽ của sản phẩm từ chè vằng kéo theo nhu cầu nguyên liệu lớn. Trong khi đó, diện tích cây vằng tự nhiên đang dần bị thu hẹp do chuyển đổi đất rừng và khai thác quá mức. Nhằm bảo tồn và phát triển bền vững, Quảng Trị đã triển khai dự án sản xuất thử nghiệm cây chè vằng tại vùng La Vang (xã Hải Phú, huyện Hải Lăng cũ và nay là xã Hải Lăng).

Dự án tập trung vào nhân giống bằng phương pháp giâm hom, xây dựng mô hình trồng tập trung 3 ha đạt tiêu chuẩn GACP-WHO theo tiêu chuẩn thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc của Tổ chức Y tế Thế giới. Kết quả bước đầu cho thấy tỷ lệ cây sống cao, sinh trưởng tốt, chất lượng dược tính ổn định. Tỉnh đang khuyến khích nhân rộng mô hình, hướng tới hình thành vùng nguyên liệu dược liệu sạch quy mô lớn.

Cây chè vằng được chiết xuất làm cao hoặc trà túi lọc.
Cây chè vằng được chiết xuất làm cao hoặc trà túi lọc.

Giá trị kinh tế và triển vọng phát triển

Hiện toàn tỉnh Quảng Trị có khoảng 63 ha chè vằng, trong đó 53 ha nuôi trồng, 10 ha tự nhiên, cho sản lượng khoảng 4.000 tấn/năm. Với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong nước và tiềm năng xuất khẩu, chè vằng đang trở thành cây kinh tế mới đầy triển vọng, giúp người dân vùng gò đồi tăng thu nhập, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng “sản xuất nông nghiệp - dược liệu xanh”.

Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Trị xác định: phát triển cây chè vằng không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn gắn liền với chiến lược phát triển công nghiệp dược liệu quốc gia, góp phần nâng cao giá trị hàng hóa, tạo việc làm, và khai thác hiệu quả tiềm năng tự nhiên của địa phương.

Từ lâu, chè vằng đã được người dân sử dụng làm nước uống hằng ngày, đặc biệt hữu ích cho phụ nữ sau sinh nhờ công dụng thanh nhiệt, lợi sữa, giảm viêm, hỗ trợ tiêu hóa và điều hòa nội tiết tố.
Từ lâu, chè vằng đã được người dân sử dụng làm nước uống hằng ngày, đặc biệt hữu ích cho phụ nữ sau sinh nhờ công dụng thanh nhiệt, lợi sữa, giảm viêm, hỗ trợ tiêu hóa và điều hòa nội tiết tố.

Trong thời gian tới, tỉnh Quảng Trị sẽ tiếp tục đầu tư chuỗi sản xuất - chế biến - tiêu thụ theo mô hình liên kết 4 nhà (nhà nông - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - nhà nước), đồng thời hướng đến xuất khẩu các sản phẩm chế biến sâu như cao chè vằng, tinh chất hòa tan, viên nén chức năng.

Nếu được quy hoạch và đầu tư đúng hướng, cây chè vằng hoàn toàn có thể trở thành “sản phẩm chủ lực vùng gò đồi Quảng Trị”, góp phần phát triển kinh tế xanh, kinh tế dược liệu- một hướng đi bền vững cho nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập./.