Lào Cai hiện sở hữu một trong những vùng chè lớn của miền Bắc với hơn 6.500 ha chè và sự tham gia sản xuất của trên 8.000 hộ dân. Mỗi năm, địa phương này thu về khoảng 250 tỷ đồng từ chè búp tươi nguồn sinh kế quan trọng của người dân vùng cao. Trong số đó, hơn 3.000 ha là chè shan giống chè cổ quý hiếm, chủ yếu mọc ở các huyện Bát Xát, Mường Khương, Bắc Hà và Văn Bàn.
Cán bộ Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Bát Xát ghi chép đặc điểm về cây chè shan cổ thụ ở Y Tý.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động canh tác chè tại đây vẫn còn mang tính tự phát. Người dân chưa xác định rõ chè là cây trồng chủ lực để xoá đói giảm nghèo, cũng chưa có kế hoạch phát triển cụ thể. Cơ sở chế biến còn manh mún, phân tán, dẫn đến hiệu quả kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng.
Trước thực trạng đó, huyện Bát Xát nơi tập trung nhiều cây chè shan cổ thụ nhất đã có bước đi chiến lược: nghiên cứu, tuyển chọn và bảo tồn giống chè bản địa quý hiếm này. Theo ông Sí Trung Kiên, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện, việc đánh giá các đặc điểm nông sinh học của chè shan cổ nhằm chọn ra những cây nổi trội có vai trò then chốt trong việc nhân giống, nâng cao thu nhập, đồng thời bảo vệ hệ sinh thái và gìn giữ cây trồng bản địa mang giá trị văn hóa.
Chè shan cổ thụ tại Bát Xát tập trung chủ yếu tại 6 xã: A Mú Sung, Dền Sáng, Dền Thàng, Y Tý, Sàng Ma Sáo và Cốc Mỳ. Từ hàng nghìn cây ban đầu, sau quá trình điều tra, khảo sát kỹ lưỡng theo tiêu chí khoa học, 103 cây được lựa chọn, trong đó có 80 cây được công nhận là cây đầu dòng – nguồn giống quý hiếm. Tất cả các cây này đều ra hoa, kết trái, tạo nguồn giống ổn định với trung bình mỗi năm thu được khoảng 130 kg hạt và 55.000 hom giống.
Phương pháp chọn lọc cá thể được áp dụng để đánh giá các cây có đặc điểm hình thái nổi bật như sinh trưởng khỏe, năng suất cao, chất lượng tốt. Các cây chè sau khi được chọn sẽ được chăm sóc định kỳ và sử dụng làm cây mẹ nhân giống. 80 cây đầu dòng này đã được Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lào Cai công nhận là nguồn giống lâm nghiệp chính thức.
Trong số các cây được tuyển chọn, xã Y Tý có 15 cây sinh trưởng và cho năng suất cao nhất. A Mú Sung là địa phương có số lượng cây đầu dòng nhiều nhất với 60 cây, còn lại là 5 cây ở xã Dền Sáng. Tất cả đều được đánh số và gắn mã số để theo dõi, quản lý.
Chè shan là giống chè thân gỗ, có lá to, nhiều răng cưa, búp chè được phủ lớp tuyết trắng tự nhiên dấu hiệu nhận biết đặc trưng. Giống chè này sinh trưởng tốt ở độ cao từ 600m trở lên và có tuổi thọ rất cao, nhiều cây sống hàng trăm năm vẫn ra búp đều đặn. Ước tính, chè shan hiện chiếm khoảng 15% tổng diện tích chè cả nước, phân bố chủ yếu tại Lào Cai, Hà Giang và Yên Bái.
Không chỉ có giá trị về mặt sinh học, chè shan còn mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao, gắn bó mật thiết với đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Sản phẩm chè shan chế biến đúng cách có giá trị kinh tế cao, giá khô trung bình khoảng 350.000 đồng/kg, thậm chí có thể đạt đến vài triệu đồng/kg nếu được chế biến theo công nghệ cao và bảo tồn hương vị nguyên bản.
Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, cùng với việc chưa có chiến lược nhân giống bài bản khiến số lượng cây chè shan cổ thụ ngày càng suy giảm. Trước tình hình đó, việc tuyển chọn và nhân giống các cây trội không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là hướng đi dài hạn để bảo tồn nguồn gen quý, mở rộng diện tích trồng chè, tạo sinh kế bền vững cho người dân.
Ông Sí Trung Kiên nhấn mạnh: “Chè shan cổ thụ là kết tinh của hàng trăm năm chọn lọc tự nhiên, có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, thích nghi cao với điều kiện khắc nghiệt. Những cây trội còn cho năng suất cao, búp lớn, hương thơm đặc trưng, hàm lượng polyphenol và catechin cao những chất chống oxy hóa giúp nâng cao giá trị thương phẩm của chè”.
Hiện nay, huyện Bát Xát đã ký hợp đồng 10 năm với các hộ dân có cây chè shan cổ thụ để cùng bảo vệ, chăm sóc và khai thác giống. Mỗi hộ được hỗ trợ 1 triệu đồng/cây/năm, đồng thời được hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc định kỳ. Việc chăm sóc được chia làm hai đợt: từ tháng 3–4 và tháng 8–9, bao gồm phát dọn thực bì, làm cỏ, bón phân hữu cơ, tỉa cành già yếu... Các cây được chăm sóc đều có độ tuổi từ 60–90 năm, chủ yếu nằm trong các khu rừng sản xuất do người dân địa phương quản lý.
Việc bảo tồn và nhân giống chè shan cổ thụ tại Lào Cai không chỉ là bước đi quan trọng trong phát triển nông nghiệp bền vững mà còn là sự khẳng định vai trò của bản địa học trong ứng phó với biến đổi khí hậu, gìn giữ sinh kế và văn hóa của cộng đồng vùng cao. Đây là minh chứng rõ ràng cho cách mà khoa học và truyền thống có thể song hành, cùng nhau tạo nên những sản phẩm nông nghiệp mang giá trị kép: kinh tế và di sản.