Lào Cai tập trung xây dựng và phát triển 08 chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chủ lực

Nhằm thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp, trọng tâm là triển khai dự án ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và phát triển chuỗi giá trị chè, mới đây, UBND tỉnh Lào Cai vừa ban hành kế hoạch 220/KH-UBND ngày 11/5/2021phát triển chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chủ lực của tỉnh, giai đoạn 2021 - 2025.

Lào Cai sẽ tập trung xây dựng và phát triển 08 chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chủ lực nhằm thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp, trọng tâm là triển khai dự án ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và phát triển chuỗi giá trị chè.
Lào Cai sẽ tập trung xây dựng và phát triển 08 chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chủ lực nhằm thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp, trọng tâm là triển khai dự án ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và phát triển chuỗi giá trị chè.

Cụ thể, tỉnh Lào Cai xác định đến năm 2025 xây dựng và vận hành 05 Dự án chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ các cây trồng chủ lực gồm: chè, dược liệu, rau, cây ăn quả, lúa gạo chất lượng cao. Góp phần nâng cao giá trị sản xuất hàng hóa các cây trồng chủ lực đạt khoảng 4.400 tỷ đồng, chiếm trên 50% giá trị ngành trồng trọt và 21,3% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Tổng số doanh nghiệp/HTX tham gia liên kết 74 cơ sở. 02 Dự án chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ vật nuôi chủ lực gồm: thủy sản nước lạnh; lợn, gà. Góp phần nâng cao giá trị sản xuất hàng hóa các vật nuôi chủ lực đạt trên 5.500 tỷ đồng, chiếm 84% giá trị ngành chăn nuôi và 26,7% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Tổng số doanh nghiệp/HTX tham gia liên kết 82 cơ sở. Và 01 Dự án chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ quế. Góp phần nâng cao giá trị sản xuất hàng hóa chủ lực ngành lâm nghiệp đạt trên 3.400 tỷ đồng và 16,5% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Tổng số doanh nghiệp/HTX tham gia liên kết 13 cơ sở.

Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) tỉnh Lào Cai Đỗ Văn Duy, hiện tại việc phát triển vùng chè nguyên liệu ở Lào Cai đang gặp khó khăn do công tác quản lý quy hoạch hạn chế; người dân một số địa phương tự ý thay thế trồng cây lâm nghiệp hoặc bỏ không chăm sóc, cho nên diện tích chè bị thu hẹp. Việc quản lý chất lượng giống chè một số nơi còn lỏng lẻo, vẫn còn tình trạng sử dụng chè hạt gieo trồng trong vùng chè thâm canh.

Bên cạnh đó, tại một số vùng trồng chè, người trồng chưa quan tâm đầu tư thâm canh chăm sóc chè, hầu hết diện tích chè kinh doanh chưa được bón phân đầy đủ, đúng quy trình. Việc liên kết trong sản xuất còn lỏng lẻo, một số nơi chưa thành lập được các hợp tác xã ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp chế biến, sản phẩm chưa có nơi tiêu thụ ổn định.

Trong khi đó, thủ tục đăng ký chứng nhận duy trì và mở rộng diện tích sản xuất chè theo VietGAP còn gặp nhiều khó khăn; hỗ trợ lãi suất vốn vay còn rất hạn chế. Điển hình như hai dự án được hỗ trợ và chỉ áp dụng đối với huyện nghèo và các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao. Các cá nhân tổ chức có nhu cầu đầu tư sản xuất chè hàng hóa, theo hướng liên kết gắn tiêu thụ sản phẩm ở các địa bàn khác trên địa bàn toàn tỉnh thì không được thụ hưởng chính sách này.

Về định hướng phát triển cây chè bền vững trong thời gian tới, Thứ trưởng NN và PTNT Lê Quốc Doanh nhấn mạnh, xây dựng ngành chè phát triển theo hướng hiện đại, đồng bộ, bền vững, đa dạng, trên cơ sở nhu cầu của thị trường gắn với vệ sinh an toàn thực phẩm, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu khoa học công nghệ, đẩy mạnh thâm canh và sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, nguồn nước, lao động để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Phát triển sản xuất chè phải gắn kết chặt chẽ với công nghiệp chế biến chè, hình thành các liên kết sản xuất theo chuỗi các vùng sản xuất chè hàng hóa tập trung quy mô lớn, phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước, trên cơ sở huy động được mọi nguồn lực, phát huy lợi thế của từng vùng, nâng cao khả năng cạnh tranh, mang lại giá trị gia tăng và nâng cao thu nhập cho người sản xuất và doanh nghiệp.

Để nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển bền vững ngành chè trong thời gian tới, Bộ NN và PTNT đề ra tám nhóm giải pháp đồng bộ từ tổ chức vùng sản xuất, khoa học - công nghệ, chuyển đổi cơ cấu giống gắn với định hướng sản phẩm chè… đến phân vùng nguyên liệu, tổ chức sản xuất, nâng cao năng lực chế biến, xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại.

Trong những năm tới tỉnh sẽ tập trung triển khai dự án ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và phát triển chuỗi giá trị chè. Tỉnh tiếp tục duy trì diện tích gần 500 ha chè chất lượng cao; thực hiện trồng mới nâng tổng diện tích chè ứng dụng công nghệ cao trên toàn tỉnh đến hết năm 2025 đạt hơn 1.000 ha; giá trị thu nhập cao hơn so với thu nhập bình quân chung trong sản xuất chè khoảng 25%. Đồng thời thực hiện việc thâm canh, tăng năng suất, diện tích chè kinh doanh lên 1.205 ha; nâng tổng diện tích chè VietGAP trên toàn tỉnh đạt 3.505 ha, năng suất đạt khoảng 8 đến 10 tấn, áp dụng một trong các tiêu chuẩn như: VietGAP, Global GAP, HACCP, ICM, chè hữu cơ để giúp quản lý chặt chẽ nguồn chè nguyên liệu, ổn định chất lượng sản phẩm tại các vùng nguyên liệu đặc sản chè của tỉnh.

Hy vọng với sự quyết liệt của ngành chủ quản, sự chủ động của các địa phương trong việc thực hiện những giải pháp đồng bộ nêu trên, những bất cập, trở ngại do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 trong phát triển cây chè tại tỉnh Lào Cai sẽ nhanh chóng được khắc phục, đưa ngành chè nước ta phát triển tương xứng tiềm năng, đưa kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam tăng cao, mang lại giá trị gia tăng, thu nhập cao và bền vững hơn cho người sản xuất và doanh nghiệp.

Dinh An