Nâng tầm giá trị chè Việt: Con đường chinh phục thị trường quốc tế

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, ngành chè Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức lớn. Mặc dù đã vươn lên vị trí thứ năm thế giới về sản xuất và xuất khẩu chè, Việt Nam vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của mình. Phần lớn chè Việt Nam xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô, chưa qua chế biến sâu, đóng gói đơn giản và thiếu nhãn mác, giá xuất khẩu chè của Việt Nam chỉ đạt khoảng 65% so với mức giá bình quân toàn cầu. Đây là thách thức lớn mà ngành chè cần phải vượt qua.

Việt Nam hiện là nước sản xuất và xuất khẩu chè đứng thứ 5 thế giới. Chè Việt đã có mặt tại hơn 70 quốc gia vùng lãnh thổ. Việt Nam đã chế biến được khoảng 15 loại chè khác nhau, trong đó chè đen và chè xanh là hai sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xuất khẩu. Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu 145.000 tấn chè, với trị giá 256 triệu USD, tăng 25,4% về lượng và tăng 27% về trị giá so năm 2023.

Nâng tầm giá trị chè Việt: Con đường chinh phục thị trường quốc tế - Ảnh 1

Cục Hải quan (Bộ Tài chính) cho biết, xuất khẩu chè trong tháng 1/2025 đạt 9.700 tấn, trị giá 16,4 triệu USD, giảm 21,6% về lượng và giảm 21,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 1 đạt 1.693,7 USD/tấn, tăng 0,2% so với tháng 1/2024. Pakistan vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất mặt hàng chè của Việt Nam, chiếm tới 35,1% tổng lượng và 38,7% tổng trị giá xuất khẩu chè của cả nước.

Ông Hoàng Vĩnh Long - Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam chia sẻ: Khí hậu cũng như thổ nhưỡng của Việt Nam rất phù hợp cho sự phát triển của cây chè. Hiện ở ta có nhiều vùng chè đặc sản, chất lượng cao như: Thái Nguyên, Sơn La, Lâm Đồng. Đặc biệt, Việt Nam còn có gần 20.000ha chè shan rừng. Nhiều vùng chè shan cổ thụ hàng trăm năm tuổi cho chất lượng cao như Suối Giàng (Yên Bái), Hà Giang, Tà Xùa (Sơn La)... Điều này khiến chất lượng chè Việt không thua kém bất kỳ quốc gia sản xuất chè nào trên thế giới. Đặc biệt, chè xanh Việt Nam được rất nhiều khách hàng đánh giá cao như chè xanh Mộc Châu, Thái Nguyên, Suối Giàng, Hà Giang, Ôlong Lâm Đồng, các sản phẩm chè ướp hương sen, nhài...

Dù sở hữu nhiều tiềm năng, nhưng theo các chuyên gia, giá chè Việt Nam xuất khẩu ra thị trường quốc tế vẫn còn thấp. Theo ước tính, giá chè xuất khẩu bình quân của nước ta chỉ bằng 65% giá bình quân của các nước hàng đầu về xuất khẩu chè và chỉ bằng 55% giá chè xuất khẩu bình quân của Ấn Độ và Sri Lanka. Các sản phẩm nổi tiếng khi xuất khẩu ra nước ngoài đến tay người tiêu dùng phần lớn lại không mang thương hiệu của doanh nghiệp Việt.

Nâng tầm giá trị chè Việt: Con đường chinh phục thị trường quốc tế - Ảnh 2

Các chuyên gia chỉ ra rằng ngành chè Việt Nam đang phải đối mặt với ba vấn đề chính. Thứ nhất là công nghệ chế biến lạc hậu, khiến cho chè Việt Nam chưa tận dụng được hết tiềm năng từ nguồn nguyên liệu chất lượng cao. Dây chuyền chế biến vẫn còn nhiều điểm yếu và thiếu sự hiện đại, điều này làm giảm khả năng sản xuất các sản phẩm chè chế biến sâu có giá trị gia tăng cao. Thứ hai là thiếu chiến lược xây dựng và quảng bá thương hiệu bài bản. Mặc dù chè Việt có chất lượng rất tốt, nhưng các thương hiệu chè Việt vẫn chưa được xây dựng một cách chuyên nghiệp và chưa đủ sức mạnh để cạnh tranh với các thương hiệu quốc tế. Việc thiếu chiến lược quảng bá hiệu quả khiến chè Việt khó tiếp cận được các thị trường cao cấp và khó tính. Thứ ba là sự phụ thuộc quá nhiều vào các thị trường truyền thống như Pakistan, chiếm đến 35% lượng chè xuất khẩu. Điều này khiến cho ngành chè Việt Nam trở nên mong manh và dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động trong nền kinh tế của các thị trường này.

Để nâng cao giá trị xuất khẩu chè và đưa chè Việt Nam ra thế giới, ngành chè cần thực hiện các giải pháp đồng bộ và chiến lược phát triển dài hạn. Về công nghệ, việc đầu tư vào các dây chuyền chế biến hiện đại và ứng dụng công nghệ cao là vô cùng quan trọng. Sự chuyển mình này sẽ giúp ngành chè không chỉ sản xuất các loại chè truyền thống mà còn có thể tạo ra các sản phẩm chế biến sâu như chè hữu cơ, matcha hay tinh chất chè – những sản phẩm có giá trị cao và phù hợp với nhu cầu của thị trường quốc tế. Đầu tư vào công nghệ chế biến không chỉ giúp nâng cao chất lượng chè mà còn làm giảm chi phí sản xuất, từ đó gia tăng lợi nhuận cho người sản xuất.

Về mặt thương hiệu, xây dựng một thương hiệu chè Việt mạnh mẽ là yếu tố then chốt để chè Việt có thể phát triển bền vững trên thị trường quốc tế. Việc xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch sẽ giúp tăng cường niềm tin của người tiêu dùng, đặc biệt là trong bối cảnh người tiêu dùng quốc tế ngày càng chú trọng đến chất lượng và nguồn gốc sản phẩm. Cùng với đó, việc xây dựng và quảng bá câu chuyện về chè shan tuyết cổ thụ – một sản phẩm đặc trưng của Việt Nam – sẽ tạo ra sự khác biệt và giúp chè Việt có được chỗ đứng vững vàng trong lòng người tiêu dùng quốc tế. Mặt khác, việc phát triển thương hiệu quốc gia cho chè Việt là rất cần thiết. Một thương hiệu quốc gia mạnh sẽ giúp nâng cao giá trị và khẳng định chất lượng chè Việt trên thế giới.

Ngoài ra, việc mở rộng thị trường là yếu tố quan trọng để gia tăng giá trị xuất khẩu chè. Việt Nam cần tập trung vào các thị trường khó tính như Liên minh Châu Âu (EU), Mỹ và Nhật Bản – những thị trường yêu cầu cao về chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm. Việc tham gia các hội chợ quốc tế và xúc tiến thương mại sẽ tạo cơ hội để chè Việt Nam tiếp cận được với các khách hàng tiềm năng. Đồng thời, việc phát triển kênh bán hàng trực tuyến toàn cầu cũng là một giải pháp hiệu quả giúp chè Việt có thể tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng quốc tế mà không cần qua các trung gian.

Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) thông tin, định hướng đến năm 2030, diện tích chè được chứng nhận sạch, an toàn (hữu cơ, GAP, VietGAP và tương đương) đạt hơn 70%; ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tưới nước, bón phân, thu hái, bảo quản, chế biến... Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cũng đề ra mục tiêu diện tích chè hữu cơ cả nước đến năm 2030 đạt khoảng 11.000ha, sản lượng đạt khoảng 70.000 tấn, tập trung tại các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái và Thái Nguyên. Phấn đấu đến năm 2030, diện tích chè đặc sản cả nước đạt khoảng 34,5 nghìn ha, sản lượng đạt khoảng 290.000 tấn

Chè Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng để trở thành ngành hàng xuất khẩu tỷ đô nếu biết tận dụng lợi thế về nguyên liệu chất lượng cao, kết hợp với công nghệ chế biến hiện đại và chiến lược thương hiệu bài bản. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, cần có sự chung tay của cả Nhà nước, doanh nghiệp và người nông dân trong một chiến lược phát triển lâu dài và bền vững. Chỉ khi thực hiện được những giải pháp đột phá này, ngành chè Việt mới có thể nâng cao giá trị và chiếm lĩnh thị trường quốc tế.