Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng nhiều tới kinh tế - xã hội trong đó có ngành chè. Để giữ ổn định diện tích cây chè đồng thời với nâng cao giá trị gia tăng của chè và sản phẩm trà, theo đại diện Hiệp hội chè Việt Nam, các địa phương nhất thiết phải đánh giá lại thực trạng sản xuất, kinh doanh, đầu tư, chỉ đạo, tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu. Đặc biệt, để nâng cao chất lượng trà, cần đẩy mạnh chế biến, liên kết; phân khúc sản phẩm trà, gắn với chọn giống và chế biến trà; chú ý phát triển, nâng cao chất lượng các sản phẩm mới nhưng đồng thời cũng phải nâng cao chất lượng sản phẩm trà truyền thống.
Hơn nữa, để việc phát triển sản xuất ngành chè đảm bảo thực sự bền vững thì quy mô diện tích trồng chè phải phù hợp với yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, địa bàn bố trí phù hợp với sinh thái và truyền thống canh tác, đồng thời phải có khả năng cạnh tranh về hiệu quả kinh tế với các cây trồng khác trên địa bàn.
Phát huy tiềm năng, lợi thế thổ nhưỡng, khí hậu, nhiều vùng trồng và sản xuất chè đã phát triển cây chè theo hướng bền vững, chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, nhờ việc tăng cường đầu tư khâu giống, liên kết sản xuất, kỹ thuật chế biến, xúc tiến thương mại, nhiều địa phương còn tạo ra những thương hiệu chè nổi tiếng.
Theo thống kê từ Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tính đến năm 2020, cả nước có 34 tỉnh, thành phố trồng chè, tập trung ở vùng miền núi phía bắc và Tây Nguyên, với diện tích khoảng 124 nghìn ha, năng suất chè đạt 95 tạ/ha (cao nhất từ trước đến nay), sản lượng hơn 1,02 triệu tấn. Nếu như trong giai đoạn 2011 - 2015, diện tích chè tăng từ 127,8 lên 133,6 nghìn ha, thì đến cuối năm 2019, diện tích có xu hướng giảm, nhưng năng suất tăng mạnh từ 7,68 lên 9,48 tấn/ha, nhờ đó sản lượng chè giai đoạn 2011 - 2019 tăng 18,4%. Có được kết quả này là do các tỉnh xây dựng và triển khai các chính sách khuyến khích người dân, doanh nghiệp (DN) cơ cấu lại cây chè, mở rộng diện tích sản xuất chè an toàn, hữu cơ, chất lượng cao, bảo tồn giống chè đặc sản, thay đổi tập quán canh tác, thu hái, vận chuyển chè, đầu tư đổi mới công nghệ chế biến.
Tỉnh Hà Giang có gần 21 nghìn ha chè, trong đó hơn 70% diện tích là chè shan tuyết cổ thụ. Xác định đây là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, từ năm 2016 đến nay, Hà Giang triển khai nhiều chương trình hỗ trợ với số vốn đầu tư hơn 56 tỷ đồng, trong đó, tập trung cấp giấy chứng nhận theo tiêu chuẩn GAP cho gần 12 nghìn ha (diện tích chè VietGAP là gần 5.000 ha; diện tích chè hữu cơ là 7.000 ha). Tỉnh cũng đã xây dựng, được công nhận chỉ dẫn địa lý "Chè shan tuyết Hà Giang" cho gần 17 nghìn ha chè trên địa bàn tỉnh.
Từ năm 2017, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành "Ðề án nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững cây chè và thương hiệu sản phẩm chè Thái Nguyên giai đoạn 2017 - 2020", tập trung đầu tư, hỗ trợ nhân dân tăng diện tích, thay thế các nương chè cũ bằng các giống chè mới có năng suất, chất lượng tốt hơn; hỗ trợ đầu tư công nghệ chế biến, đóng gói, cải thiện mẫu mã sản phẩm, quảng bá thương hiệu. Ðến nay, Thái Nguyên có 17.824 ha chè giống mới, chiếm gần 80% diện tích; gần 2.500 ha chè được cấp chứng nhận VietGAP, hàng trăm ha chè được sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ.
Tại Phú Thọ, Hợp tác xã (HTX) dịch vụ nông nghiệp nông thôn Ðông Lĩnh, huyện Thanh Ba là một trong những điển hình về việc các hộ dân cùng liên kết phát triển và xây dựng thương hiệu chè. HTX đã quy hoạch được vùng sản xuất chè với diện tích 20 ha, sản lượng hàng năm đạt hơn 10 tấn chè búp tươi. Năm 2006, làng nghề sản xuất, chế biến chè Dốc Ðen chính thức được công nhận và hiện tại, sản phẩm chè xanh Dốc Ðen đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ; chứng nhận nhãn hiệu tập thể, nhờ đó, giá trị và hiệu quả kinh tế của cây chè được nâng lên rõ rệt.
Xã vùng sâu Bản Liền, huyện Bắc Hà (Lào Cai) có hơn 300 hộ trồng chè shan tuyết, hộ ít thì có 0,5 ha, hộ nhiều có tới 3 - 4 ha chè đang cho thu hoạch. Nhiều hộ thoát nghèo và đang làm giàu từ chuyển đổi sang trồng chè shan tuyết, làm chè hữu cơ theo tiêu chuẩn VietGAP xuất khẩu sang các nước Pháp, Ðức, Hà Lan… Mới đây, có thêm sản phẩm chè Hồng Ðào để xuất khẩu sang thị trường Mỹ, với giá cao hơn, mở ra hướng đi mới cho người trồng chè nơi đây.
Tại Tuyên Quang, Công ty cổ phần Chè Mỹ Lâm sản xuất các sản phẩm chè bảo đảm an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn EU, làm tăng giá bán chè thành phẩm, giảm giá thành sản xuất, thị trường mở rộng và ổn định. Công nghệ sản xuất đã đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và quản lý của các tập đoàn lớn trên thế giới. Sản lượng sản xuất của công ty đạt 2.050 đến 2.300 tấn/năm, được xuất khẩu ra nhiều thị trường lớn trên thế giới.
Để thúc đẩy xây dựng nông thôn mới, tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững, cần tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 26-NQ/TW, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X "về nông nghiệp, nông thôn, nông dân"; Kết luận số 56-KL/TW, ngày 21-2-2013, của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ năm khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”; Kết luận số 97-KL/TW, ngày 9-5-2014, của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, đồng thời triển khai có hiệu quả Luật Hợp tác xã, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể. Theo đó, phát triển nông nghiệp nói chung và ngành chè nói riêng toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở tái cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
Có thể thấy, việc thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp vừa phải theo cơ chế thị trường, vừa phải bảo đảm các mục tiêu cơ bản về phúc lợi cho nông dân và người tiêu dùng, chuyển mạnh từ phát triển theo chiều rộng sang nâng cao chất lượng, hiệu quả, tăng giá trị, lợi nhuận, do đó, ngành chè cần chú ý quan tâm triển khai nội dung này, đặc biệt từng bước xây dựng và khẳng định thương hiệu chè Việt theo một cách riêng biệt, độc đáo, khẳng định uy tín và chất lượng của chè “made in Vietnam” với nhiều sản phẩm trà đa dạng, phong phú với 3 dòng chính là trà mạn, trà hương và trà tươi.
Đặc biệt, để đạt được mục tiêu phát triển chè an toàn, bền vững, ổn định diện tích trồng chè của Việt Nam khoảng 130-140 nghìn ha; đến năm 2025 diện tích chè được chứng nhận an toàn lên 55% và đến năm 2030 khoảng 75%; nâng tỷ lệ chè chất lượng cao (chè xanh, chè Ô long…) lên 30% vào năm 2025 và 50% vào năm 2030; kiểm soát được chất lượng vật tư đầu vào như giống, phân bón và đặc biệt là thuốc bảo vệ thực vật; 100% số cơ sở sản xuất chè được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo quy định; giá trị xuất khẩu đạt 300 triệu USD vào năm 2025 và 400 triệu năm 2030… Các cơ quan quản lý, cơ quan chuyên môn cần thực hiện tốt công tác quản lý diện tích chè nguyên liệu, đảm bảo diện tích chè hiện có. Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, các địa phương về phát triển sản xuất chè an toàn; kết hợp chuyển đổi giống mới, thâm canh, nâng cao chất lượng chè.
Cùng với đó, trên cơ sở phân tích, đánh giá xu hướng thị trường, có giải pháp khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu chè Việt trên thị trường quốc tế để nâng cao giá trị, thu nhập cho người sản xuất, kinh doanh chè. Các địa phương trồng chè cần xây dựng đề án phát triển vùng sản xuất chè an toàn; triển khai các dự án khoa học - công nghệ, khuyến nông phục vụ sản xuất, chế biến chè an toàn.
Dinh Dinh