Vùng chè Bắc Trung bộ trước ngã rẽ chuyển đổi: Tái cơ cấu giống để khai mở tiềm năng tỷ đô

Vùng Bắc Trung bộ với những lợi thế đặc thù về thổ nhưỡng và khí hậu, từ lâu đã được xem là một khu vực sở hữu tiềm lực lớn để phát triển ngành hàng chè. Tuy nhiên, một thực tế đáng suy ngẫm là giá trị kinh tế mà cây chè mang lại cho người nông dân nơi đây vẫn còn rất khiêm tốn so với tiềm năng vốn có.

Những "điểm nghẽn" cố hữu liên quan đến cơ cấu giống chè đã già cỗi, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu và quy trình chế biến chưa được đầu tư đúng mức đang kìm hãm sự bứt phá của cả một vùng nguyên liệu rộng lớn. Trước thực trạng đó, việc chuyển đổi cơ cấu giống chè, hướng đến các dòng sản phẩm chất lượng cao và đáp ứng nhu cầu của thị trường, đang được xem là một yêu cầu cấp thiết, một con đường tất yếu để ngành chè Bắc Trung bộ có thể phát triển một cách bền vững và nâng cao giá trị trong giai đoạn tới.

Tiềm năng chưa được khai phá hết của một vùng nguyên liệu chè rộng lớn

Vùng chè Bắc Trung bộ hiện nay chủ yếu tập trung tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, với tổng diện tích lên đến gần 10 ngàn héc ta và năng suất bình quân đạt khoảng 10 tấn mỗi héc ta. Chỉ tính riêng tại tỉnh Hà Tĩnh, tính đến năm 2024, diện tích chè đã đạt 1.213 héc ta, trong đó diện tích đang trong giai đoạn kinh doanh là hơn 1.132 héc ta. Năng suất chè bình quân của tỉnh đạt gần 123 tạ mỗi héc ta, cho ra sản lượng gần 14.000 tấn mỗi năm. Các giống chè chủ yếu đang được trồng tại đây là các giống PH1, LDP1 và LDP2. Đáng chú ý, vào năm 2017, toàn bộ diện tích chè của tỉnh Hà Tĩnh đã được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP, một bước tiến quan trọng trong việc chuẩn hóa quy trình sản xuất.

Vùng chè Bắc Trung bộ trước ngã rẽ chuyển đổi: Tái cơ cấu giống để khai mở tiềm năng tỷ đô - Ảnh 1

Trong nhiều năm qua, cây chè đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động và mang lại một nguồn thu nhập tương đối khá cho người dân Hà Tĩnh. Với mỗi héc ta chè, một hộ nông dân có thể thu về bình quân khoảng 70 triệu đồng mỗi năm. Tuy nhiên, con số này có thể tăng lên đáng kể, thậm chí đạt 150 triệu đồng mỗi héc ta mỗi năm đối với những hộ gia đình có sự đầu tư thỏa đáng và áp dụng các quy trình chăm sóc tốt. Không chỉ góp phần vào việc cải thiện chất lượng kinh tế và làm thay đổi bộ mặt của kinh tế nông thôn, cây chè còn có một vai trò quan trọng trong việc phủ xanh đất trống, đồi trọc, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Tại Nghệ An, diện tích trồng chè hiện có vào khoảng 8.700 héc ta và theo quy hoạch, diện tích này sẽ được mở rộng lên đến 15.000 héc ta vào năm 2030, nhằm khai thác một cách tối đa thế mạnh của loại cây trồng này.

"Điểm nghẽn" cố hữu đang kìm hãm sự phát triển của cả một ngành hàng

Mặc dù sở hữu một tiềm lực lớn, ngành hàng chè tại các tỉnh Bắc Trung bộ vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là trong khâu chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ, cả ở trong nước lẫn xuất khẩu. Ông Nguyễn Văn Đệ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An, đã chia sẻ rằng tỉnh hiện vẫn còn thiếu những doanh nghiệp lớn, có tiềm lực mạnh để đầu tư một cách bài bản vào lĩnh vực này. Ông cũng bày tỏ mong muốn mời gọi các doanh nghiệp đến để hợp tác, cùng nhau phát triển ngành hàng chè của địa phương.

Những khó khăn này đã được Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và hiện là Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, đánh giá một cách sâu sắc. Ông chỉ ra một nghịch lý lớn về giá trị: "Giá trị thu được từ chè búp tươi hoàn toàn có thể đạt đến 400 triệu đồng mỗi héc ta, và nếu được chế biến thành chè đen chất lượng cao, con số này có thể tăng lên gấp đôi. Nhưng thực tế đáng buồn là, mức thu nhập trung bình của người trồng chè tại vùng Bắc Trung bộ hiện nay chỉ đạt khoảng 50-60 triệu đồng mỗi héc ta – một mức quá thấp so với tiềm năng".

Nguyên nhân chính của tình trạng này được các chuyên gia chỉ ra là do sự chậm trễ trong việc đổi mới cơ cấu giống, sự lạc hậu trong kỹ thuật canh tác và sự yếu kém trong quy trình chế biến. Hiện tại, một số tỉnh trong khu vực đã bắt đầu có những động thái tái cơ cấu lại giống chè, lựa chọn những hướng đi mới phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Ông Doanh cũng đã gợi ý rằng, các tỉnh trong vùng nên tổ chức các đoàn tham quan, học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình canh tác và chế biến chè thành công tại tỉnh Thái Nguyên, một địa phương đang làm rất tốt việc nâng cao giá trị cho cây chè, từ khâu trồng trọt đến việc xây dựng thương hiệu sản phẩm. Từ những phân tích trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Quốc Doanh bày tỏ rằng, để có thể thực sự khai mở được tiềm năng của cây chè tại vùng Bắc Trung bộ, việc đầu tiên và quan trọng nhất cần phải làm là thay đổi tư duy canh tác của người nông dân và có sự đầu tư một cách bài bản, với một chiến lược dài hạn rõ ràng.

Chuyển đổi cơ cấu giống chè: Một hướng đi chiến lược mang tính tất yếu

Nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng nhãn hiệu và khai thác hiệu quả hơn các thị trường trong và ngoài nước, từ đó gia tăng giá trị và thu nhập từ việc sản xuất chè cho bà con nông dân, một hướng đi mới cho sự phát triển của cây chè trong tương lai đang được đặt ra. Bên cạnh việc lựa chọn các giống chè mang lại năng suất và chất lượng cao, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất chè theo các tiêu chuẩn an toàn và hữu cơ được xem là một việc làm rất cần thiết và tất yếu.

Vùng chè Bắc Trung bộ trước ngã rẽ chuyển đổi: Tái cơ cấu giống để khai mở tiềm năng tỷ đô - Ảnh 2

Hiện nay, các giống chè chủ lực tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh là LDP2, PH1 và LDP1. Ba giống chè khác là PH8, CNS-831 và TRI 5.0 cũng được đánh giá là vừa có năng suất cao, vừa có khả năng chế biến được cả sản phẩm chè xanh và chè đen đạt chất lượng tốt, đồng thời có khả năng chịu hạn và chịu nóng tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu của vùng. Dựa trên 31 giống chè đã được chọn tạo thành công, Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã đề xuất một cơ cấu chuyển đổi giống chè mới cho vùng Bắc Trung bộ. Cụ thể, nhóm các giống chuyên dùng để chế biến chè xanh cao cấp như Hương Bắc Sơn, VN15, Kim Tuyên nên chiếm khoảng 10-15% diện tích; nhóm các giống chuyên dùng để chế biến chè xanh có chất lượng tốt như LCT1, PH8, CNS-831, TRI 5.0 nên có cơ cấu diện tích khoảng 30-35%; và phần còn lại sẽ là nhóm các giống chuyên dùng để chế biến chè đen như TRI 5.0, PH8, CNS-831 và các diện tích chè Shan hiện có của tỉnh Nghệ An. 

Các giống chè mới khi được đưa vào phát triển ở vùng Bắc Trung bộ tuy vẫn được trồng và chăm sóc theo các quy trình hiện hành, nhưng cần phải thực hiện thêm một số kỹ thuật canh tác đặc thù để có thể phát huy được hết tiềm năng. Trước hết, cần phải trồng một hệ thống cây che bóng đa tầng, bao gồm tầng cao, tầng trung và tầng thấp. Đối với các diện tích chè trồng mới, cần phải có hệ thống cây che bóng tạm thời ngay từ đầu. Các vườn chè, đặc biệt là các diện tích trồng nhóm giống chuyên dùng để chế biến các sản phẩm chè cao cấp, cần phải được trang bị hệ thống tưới nước, được thiết lập ngay từ khi trồng mới. Cùng với đó là việc phải ủ gốc thường xuyên cho cây chè để có thể giữ ẩm cho đất. "Những kỹ thuật canh tác đặc thù và các quy trình chế biến nghiêm ngặt này là những yêu cầu mang tính bắt buộc đối với việc phát triển các giống chè cao cấp mới," Tiến sĩ Nguyễn Văn Toàn chia sẻ.

Về định hướng phát triển thị trường, các chuyên gia cũng nhấn mạnh về tiềm năng to lớn của việc phát triển các sản phẩm chè xanh cao cấp để đáp ứng nhu cầu của cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Thông qua việc sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có từ các giống chè như LDP1 và chè Shan, vùng Bắc Trung bộ hoàn toàn có thể tối ưu hóa được nguồn nguyên liệu và mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của mình, từ đó nâng cao một cách bền vững giá trị của cây chè. 

Ngành chè Bắc Trung bộ đang đứng trước một cơ hội lớn để có thể lột xác. Con đường phía trước đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện, từ tư duy của người nông dân đến chiến lược của các doanh nghiệp và sự hỗ trợ của các chính sách từ nhà nước. Việc chuyển đổi cơ cấu giống chè, áp dụng các kỹ thuật canh tác hiện đại, thu hút đầu tư vào chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sẽ là những yếu tố then chốt, quyết định đến sự thành công của ngành trong tương lai. Chỉ khi đó, vùng chè Bắc Trung bộ mới có thể thực sự khai mở được hết tiềm năng tỷ đô của mình, mang lại một cuộc sống ấm no hơn cho người nông dân và góp phần nâng cao vị thế của ngành chè Việt Nam trên trường quốc tế.

Bảo Anh