Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 7, Việt Nam đã xuất khẩu 15.334 tấn chè, tương đương 27,4 triệu USD. Số lượng xuất khẩu tăng 9,7% và giá trị tăng 2,1% so với tháng trước. So với tháng 7/2023, xuất khẩu chè tăng 46,4% về lượng và 50% về giá trị. Trong 7 tháng đầu năm 2024, tổng lượng chè xuất khẩu đạt 77.280 tấn, với tổng giá trị 133,4 triệu USD, tăng 31,6% về lượng và 33,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Giá xuất khẩu chè trung bình là 1.726 USD/tấn, tăng 1,5%.
Hiện tại, Việt Nam xếp thứ 5 thế giới về xuất khẩu chè và đứng thứ 7 về sản xuất chè trên toàn cầu. Sản phẩm chè của Việt Nam đã có mặt tại 74 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đối với thị trường Pakistan, đây vẫn là thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm, với 22,3 nghìn tấn, trị giá 47 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2023, lượng chè xuất khẩu giảm 3,2% nhưng giá trị lại tăng 6,3%. Giá chè xuất khẩu trung bình đạt 2.100 USD/tấn, tăng gần 10%. Sau khi giảm mạnh từ đầu năm, thị trường này đang dần phục hồi đà nhập khẩu so với năm ngoái. Chè đen là loại chè chủ yếu được xuất khẩu sang Pakistan, chiếm khoảng 80% tổng sản lượng chè xuất khẩu của Việt Nam.
Đài Loan (Trung Quốc) là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai, với 8.131 tấn chè, đạt giá trị gần 14 triệu USD và giá trung bình 1.712 USD/tấn. So với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu sang Đài Loan tăng 2,4% về lượng, 6,3% về giá trị và 3,7% về giá.
Đáng chú ý, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam với 7.826 tấn, tương đương 11,3 triệu USD, tăng tới 236% về lượng và tăng 107% về trị giá. Giá xuất khẩu chè bình quân sang thị trường này chỉ đạt 1.446 USD/tấn, giảm sâu 38,2% so với cùng kỳ năm trước.
Riêng tháng 7, quốc gia này đã nhập khẩu 1.528 tấn chè từ Việt Nam, tương đương hơn 2 triệu USD, tăng mạnh 502% về lượng, tăng 385% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.
Mức tăng cao vượt bậc chủ yếu do mức nền thấp hồi đầu năm 2023 và do xuất khẩu chè đã tăng trưởng tốt trong những tháng cuối năm 2023, tạo đà cho năm 2024.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước có 120.000 ha diện tích trồng chè, 257 doanh nghiệp chế biến chè quy mô công nghiệp, tổng công suất theo thiết kế 5.200 tấn búp tươi một ngày.
Hiệp hội Chè Việt Nam đánh giá, những năm gần đây, năng suất và sản lượng chè của Việt Nam liên tục tăng nhờ sự chuyển biến tích cực về giống, kỹ thuật canh tác và tổ chức sản xuất. Bên cạnh đó, nhiều cơ chế, chính sách đã được các cấp từ Trung ương đến địa phương ban hành nhằm phát triển sản xuất và tiêu thụ chè.
Nhìn chung, ngành chè Việt Nam đang tiếp tục ghi nhận những thành tựu ấn tượng trên thị trường quốc tế, với sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về lượng và giá trị xuất khẩu. Sự cải thiện về giống, kỹ thuật canh tác và chính sách hỗ trợ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất và chất lượng chè. Điều này không chỉ khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ chè thế giới, mà còn mở ra những triển vọng phát triển bền vững cho ngành trong tương lai.