Tiềm năng của cây chè Việt Nam
Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia nguyên sản của cây chè trên thế giới, cùng với Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Myanmar và Ấn Độ. Từ ngàn xưa, cây chè không chỉ là sinh kế, đời sống mà còn là nét văn hóa đặc sắc của người Việt. Với lịch sử hàng trăm năm phát triển chè công nghiệp, Việt Nam từng tự hào khi sản phẩm chè là một trong số những nông sản đầu tiên của quốc gia được xuất khẩu.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, tính đến năm 2024, cả nước có trên 120 ngàn ha chè, được trồng tại 34 tỉnh thành với sản lượng hàng năm đạt hơn 1,2 triệu tấn chè búp tươi, tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên… Với lịch sử trồng chè từ hàng nghìn năm, cây chè từng được ví như “vàng xanh” của Việt Nam. Các sản phẩm từ cây chè Việt Nam ngày càng đa dạng, đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Ông Hoàng Vĩnh Long - Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam
Đến nay, sản phẩm chè của Việt Nam đã được xuất khẩu đến hơn 70 quốc gia, vùng lãnh thổ. Năm 2024, toàn ngành xuất khẩu đạt xấp xỉ 150 ngàn tấn, trị giá 258 triệu USD, tăng 23,9% về lượng và 23,8% về giá trị. Giá bình quân chè xuất khẩu cả năm đạt 1,75 USD/kg.
Cụ thể, xuất khẩu chè sang thị trường Pakistan tăng 24,7% về lượng và tăng 34,2% về trị giá; thị trường Đài Loan (Trung Quốc) tăng 3,0% về lượng và 6,2% về trị giá; thị trường Trung Quốc tăng mạnh 177,4% về lượng và 85,2% về trị giá; thị trường Indonesia tăng 47,9% về lượng và 53,9% về trị giá…
Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam cho biết: Ngành chè Việt Nam đã và đang phát triển theo hướng bền vững, áp dụng sản xuất theo các chứng nhận quốc tế. Điểm mạnh của Việt Nam là thổ nhưỡng, khí hậu rất phù hợp sự phát triển của cây chè với nhiều vùng chè đặc sản, chất lượng cao như: Thái Nguyên, Sơn La, Lâm Đồng. Đặc biệt, Việt Nam còn có gần 20.000 héc-ta chè Shan rừng. Nhiều vùng chè Shan cổ thụ hàng trăm năm tuổi cho chất lượng cao như Suối Giàng (Yên Bái), Hà Giang, Tà Xùa (Sơn La)... Theo đánh giá của các chuyên gia và người tiêu dùng quốc tế, chất lượng sản phẩm chè Việt Nam không thua kém bất kỳ quốc gia sản xuất chè nào trên thế giới. Đặc biệt, các sản phẩm như: Chè xanh Mộc Châu (Sơn La), chè xanh Thái Nguyên và các sản phẩm chè Shan Suối Giàng (Yên Bái), Hà Giang, chè Ôlong Lâm Đồng... được rất nhiều khách hàng đánh giá cao.
Giá trị đã thật sự tương xứng với tiềm năng?
Theo thống kê sơ bộ của Hiệp hội Chè Việt Nam, giá chè xuất khẩu bình quân của nước ta hiện chỉ đạt khoảng 65% so với mức bình quân của thế giới và chỉ bằng 55% giá bình quân của chè xuất khẩu từ Ấn Độ và Sri Lanka. Mặc dù sản lượng và số lượng xuất khẩu lớn nhưng giá trị thu được của mặt hàng này chưa cao, tính cạnh tranh còn thấp, giá cả sản phẩm không ổn định trên thị trường Quốc tế và vẫn còn phụ thuộc vào một số thị trường chính.
Việt Nam là quốc gia có thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp sự phát triển của cây chè với nhiều vùng chè đặc sản, chất lượng cao
Nhưng điều nghịch lý hơn, giá chè xuất khẩu hiện chỉ bằng 1/3 so với giá chè tiêu thụ trong nước. Hiện giá bán chè trong nước dao động từ 120.000 đồng đến 800 nghìn đồng/kg, tùy thuộc vào loại chè và thương hiệu.
Theo đánh giá của các chuyên gia và người tiêu dùng quốc tế thì chất lượng sản phẩm chè Việt Nam không thua kém bất kỳ quốc gia sản xuất chè nào trên thế giới. Đặc biệt là chè xanh Việt Nam được rất nhiều khách hàng đánh giá cao. Tuy nhiên, các sản phẩm nổi tiếng này khi xuất khẩu ra nước ngoài đến tay người tiêu dùng phần lớn lại không mang thương hiệu chè Việt Nam.
“Có một điều đáng tiếc là các sản phẩm chất lượng khi xuất khẩu ra nước ngoài, đến tay người tiêu dùng phần lớn lại không mang thương hiệu chè Việt Nam. Nguyên nhân là do hầu hết chè vẫn xuất khẩu thô, chưa có thương hiệu mạnh, trong khi hoạt động quảng bá cho chè Việt Nam cũng còn rất hạn chế”, ông Hoàng Vĩnh Long - Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam nhấn mạnh.
Lý giải về giá bán chè xuất khẩu quá thấp so với chè tiêu thụ trong nước, Hiệp hội Chè Việt Nam cho biết: Chè xuất khẩu thường chỉ là chè thô, đóng trong bao lớn, không có nhãn mác; các đối tác nhập khẩu mua về sau đó đóng gói nhỏ, dán nhãn mác của họ rồi đem đi tiêu thụ. Do đó, người tiêu dùng chè ở các nước không biết đó là chè có xuất xứ từ Việt Nam.
Cũng theo ông Long, bên cạnh những địa phương và đơn vị đã, đang thực hiện tốt việc xây dựng uy tín cho người tiêu dùng, khách hàng trong và ngoài nước thì ngành chè vẫn còn các doanh nghiệp và hợp tác xã chưa thực sự quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất vẫn chạy theo số lượng, giá rẻ, không liên kết sản xuất hoặc liên kết hình thức và thiếu kiểm soát về an toàn thực phẩm.
Khẳng định uy tín, chất lượng chè “made in Việt Nam”
Để nâng cao giá chè xuất khẩu, vấn đề quan trọng là phải xây dựng thương hiệu cho chè Việt Nam. Theo Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, để chè Việt có chỗ đứng trên thị trường, các doanh nghiệp xuất khẩu chè cần chủ động thay đổi hình ảnh, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng. Đồng thời, đầu tư các công nghệ nhằm sản xuất các mặt hàng đạt tiêu chuẩn quy định về chất lượng, an toàn thực phẩm. Xây dựng hình ảnh và uy tín của công ty với bạn hàng và người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, cần tăng cường quảng bá thương hiệu sản phẩm chè thông qua các chương trình xúc tiến thương mại trong nước và quốc tế. Tham gia các cuộc thi sản phẩm chè thế giới, cũng như trong khu vực. Xây dựng các video vùng chè, sản xuất để giới thiệu với bạn bè quốc tế về quy mô, quy trình sản xuất an toàn của doanh nghiệp, hợp tác xã... Từng bước xây dựng và khẳng định thương hiệu chè Việt trên trường quốc tế. Khẳng định uy tín và chất lượng của chè “made in Vietnam” với nhiều sản phẩm chè đa dạng, phong phú.
Trong tương lai chè Việt sẽ từng bước để bạn bè quốc tế biết đến nhiều hơn, thay vì xuất khẩu chè thô, giá rẻ thì chúng ta hướng đến xây dựng thương hiệu, chất lượng và nâng cao giá bán cho sản phẩm chè. Việc này không thể làm trong ngày một ngày hai mà chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện mục tiêu đó.
Để nâng cao chất lượng, giá trị cho ngành chè Việt Nam, Phó Cục trưởng Trồng trọt Nguyễn Quốc Mạnh cho biết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có định hướng đến năm 2030, diện tích chè được chứng nhận sạch, an toàn (hữu cơ, GAP, VietGAP và tương đương) đạt hơn 70%; ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tưới nước, bón phân, thu hái, bảo quản, chế biến...
Diện tích chè hữu cơ cả nước đến năm 2030 đạt khoảng 11.000 héc-ta, diện tích chè cho sản phẩm đạt 10.000 héc-ta, sản lượng đạt khoảng 70.000 tấn, tập trung tại các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái và Thái Nguyên. Diện tích chè đặc sản cả nước đạt khoảng 34,5 nghìn héc-ta; diện tích cho sản phẩm đạt 32.000 héc-ta, sản lượng đạt khoảng 290.000 tấn.
Trong đó, cần bảo tồn, khai thác và phát triển các vùng chè Shan tuyết phục vụ nguyên liệu cho sản xuất chè hữu cơ, chè đặc sản cũng như các sản phẩm chè chế biến có giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường sinh thái, như: Vùng chè Shan tuyết Hà Giang với diện tích hơn 7.000 héc-ta; vùng chè Shan tuyết Suối Giàng (Yên Bái) với diện tích khoảng 400 héc-ta, vùng chè Shan tuyết Tà Xùa (Sơn La) khoảng 200 héc-ta…
Cùng với sản xuất, giai đoạn từ nay đến năm 2030, ngành chè cần tập trung phát triển các mặt hàng chè mới có giá trị gia tăng cao, chế biến sâu, sản phẩm tinh chế cao cấp, được sử dụng trong các ngành thực phẩm và phi thực phẩm, dược phẩm hoặc mỹ phẩm; tiếp tục đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm chè.
Dự báo sản lượng xuất khẩu chè của Việt Nam đến năm 2030 đạt 156.000 tấn, tăng trung bình 0,83%/năm, chiếm khoảng 80% sản lượng chè sản xuất ra. Các thị trường chính của sản phẩm chè Việt Nam vẫn là Pakistan, Trung Quốc, Nga, Indonesia… và chuyển hướng xuất khẩu các sản phẩm chè chất lượng cao sang thị trường EU… Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu chè nên nắm bắt thông tin và xu hướng của từng thị trường để có cách thức thâm nhập nhanh và hiệu quả.